28 tháng 4, 2007

Tiếng hát con tàu




Bài thi học kỳ I năm 12, phân tích một đoạn trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, được cô giám khảo và cả tổ Văn trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong hào phóng cho điểm 10. Trong không khí tưng bừng hân hoan mừng 32 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, post bài này lên đây như góp thêm một tiếng vỗ cho tràng pháo tay thêm xôm tụ…



Thơ không phải đưa ru mà còn thức tỉnh
Không phải chỉ “ơ hời”, mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan…
(Chế Lan Viên)

Chế Lan Viên, cũng như bao nhà thơ khác: Xuân Diệu, Huy Cận… đều có sự chuyển mình rõ rệt từ sau Cách mạng tháng tám, theo từng bước đi của dân tộc. Dân tộc Việt Nam – một dân tộc nhỏ bé vừa mới vùng lên tự giải phóng, lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ của mình, rồi còn đương đầu với những khó khăn thử thách sau chiến tranh để khôi phục lại đất nước chuẩn bị cho công cuộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội… Lịch sử thăng trầm qua những tháng năm không thể nào quên, còn những vần thơ “đập bàn, quát tháo, lo toan” của Chế Lan Viên – may mắn thay – cũng đã để lại cho đời những âm ba không thể nào quên. Một trong những bài thơ đó là “Tiếng hát con tàu” – được tác giả viết khi đất nước đang sôi nổi trong kế hoạch xây dựng lại những vùng sâu, vùng xa, những mảnh đất trước đây là quê hương cách mạng.

Tuy là thơ tuyên truyền cho sự kiện chính trị, cho đường lối của Đảng; tuy là những vần thơ “đập bàn, quát tháo, lo toan” nhưng những vần thơ trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên không khô khan cứng nhắc mà rất mượt mà tình cảm và sục sôi bầu nhiệt huyết của trái tim. Chính vì thế, thơ Chế Lan Viên đã đến được với quần chúng nhân dân, có tác dụng rõ rệt trong công cuộc dựng xây lại đất nước. Trong “Tiếng hát con tàu”, cái tình cái lý như hòa lẫn vào nhau, như kêu gọi thúc giục mọi người mau mau lên đường:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Với Chế Lan Viên, sự ra đi đến những vùng đất mới – cụ thể ở đây là Tây Bắc – không chỉ là sự ra đi mà còn là sự trở về. Trở về với nhân dân, với cội nguồn cách mạng, cũng chính là sự trở về với bản thân mình, với tâm hồn mình, với ngọn nguồn sự sống ở mỗi con người. Ta bắt gặp ở đây năm hình ảnh so sánh liên tiếp: nai về suối cũ/ cỏ đón giêng hai/ chim én gặp mùa/ đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa/ chiếc nôi ngừng gặp cánh tay đưa. So sánh làm nâng cao ý nghĩa biểu cảm cho thơ, song cũng thường hay gây nhàm chán. Nhưng với Chế Lan Viên thì không. Mỗi hình ảnh so sánh của ông đều có sức gợi mở rất lớn. Khi mỗi người là nai, là cỏ, là chim én, là đứa trẻ thơ đói lòng, là chiếc nôi ngừng – những vật thể nhỏ bé, yếu ớt và cần sự chở che, tiếp sức, thì nhân dân là dòng suối cũ tươi mát thân thương, là mùa xuân tràn đầy nhựa sống và ấm áp biết bao, là bầu sữa ngọt thơm nuôi đứa bé lớn lên, là cánh tay tiếp thêm sức mạnh cho chiếc nôi ngừng lại tiếp tục đưa… Nhân dân – từ muôn đời nay vẫn vậy, vẫn là nơi thân thương nhất, yên bình nhất và có thể đem đến nguồn lực căng tràn cho mỗi người con sống trong lòng nhân dân. Khổ thơ như một lời reo vui, một niềm hân hoan khi được trở về với nhân dân, với đồng bào, với quê hương cách mạng, cùng nhau xây dựng lại mảnh đất này.

“Nhân dân” ở đây không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà còn rất cụ thể, rất gần gũi thân thương: người anh du kích, người em liên lạc, người mẹ từng nuôi giấu chiến sĩ. Bao nhiêu hình ảnh thân thương ùa về trong tâm tưởng nhà thơ:

Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Sừng sững giữa đoạn thơ là hình ảnh chiếc áo nâu – giản dị nhưng có sức tỏa sáng rất lớn. Hình ảnh chiếc áo nâu được hoán dụ để nói về người anh du kích của tác giả - chiếc áo nâu gắn liền với đời sống chiến đấu “anh mặc đêm công đồn”, chiếc áo nâu gắn liền với đói nghèo gian khổ “suốt một đời vá rách”, chiếc áo nâu gắn liền với tình cảm thiêng liêng: tình anh em, tình đồng bào, đồng chí. Cũng có thể hiể sâu hơn rằng chiếc áo nâu mà anh trao lại đêm cuối cùng trước lúc hy sinh ấy chứa nặng bao tình cảm, bao niềm tin, bao điều mong mỏi các em mình sẽ tiếp tục bước đi trên con đường kháng chiến gian lao mà anh đã đi qua – tiếp tục bước đi để rồi sẽ tới. Chỉ một đoạn thơ giản di mà nồng ấm tình người, Chế Lan Viên đã gởi gắm vào đấy một truyền thống – truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất quật cường của nhân dân Tây Bắc. Tiếp nối truyền thống ấy là cả một cộng đồng, những lớp người từ em bé đến cụ già đều mỗi người một việc góp phần vào cuộc kháng chiến toàn dân:

Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Đọc thơ Chế Lan Viên, ta thường hay gặp những hình ảnh đối lập. Trong đoạn thơ trên, nghệ thuật đối lập được khai thác triệt để: rừng thưa/ rừng rậm; sáng/ chiều; mười năm/ chưa mất một phong thư. Chế Lan Viên thật tài hoa tài tình khi khắc họa công việc của “thằng em liên lạc” – hai tiếng “thằng em” nghe sao mà đời thường, gần gũi và quá đỗi thân thương! Hai tiếng “thằng em” còn tạo cho người đọc cảm giác nhân vật đang được nhắc đến ấy chỉ là một cậu bé vừa bước qua tuổi lớn, ấy thế mà công việc đưa thư này dường như quá sức đối với em. Quá sức, bởi vì công việc đưa thư ấy đòi hỏi con người phải hoạt động trong chiều rộng của không gian và cả chiều dài của thời gian: rừng rậm, rừng thưa, bản Na, bản Bắc; sáng, chiều và suốt “mười năm tròn”. Những từ ngữ đối lập ở đây có tác dụng mở rộng không gian, kéo dài thời gian, và – kỳ diệu thay – còn nâng cao tầm vóc của thằng em liên lạc “chưa mất một phong thư”! Với một công việc dường như quá sức mà người em này đã hoàn thành, và hoàn thành một cách xuất sắc, phải chăng ở em có sức mạnh diệu kỳ của tình yêu quê hương đất nước? Chế Lan Viên đã viết về em với tất cả lòng trân trọng, yêu thương và trìu mến.

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi

“Con nhớ mế!”. Ba tiếng thân thương giản dị như bật lên một cách bất ngờ không kìm nén từ sâu tận đáy lòng nhà thơ. “Con nhớ mế!”. Một nỗi nhớ dâng trào thiết tha sâu nặng, nỗi nhớ dường như luôn âm ỉ trong lòng nhà thơ “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Không nhớ sao được, khi mà suốt một mùa dài con đau con bệnh là suốt một mùa dài mế thức trắng bên con, lo lắng cho con, chăm sóc cho con, và cả vỗ về ru giấc cho con. Không nhớ sao được, với người mẹ ruột mang nặng đẻ đau sinh ra ta, sự chăm lo ấy là đã quý lắm rồi, càng đáng quý hơn khi “con với mế không phải hòn máu cắt”, mà mế vẫn dành trọn cho con ngọn lửa ấm áp thiêng liêng của tình mẫu tử thâm sâu. Chỉ một mùa ở với mế thôi, thế mà ân nghĩa nặng đến nỗi con mang theo suốt cả một đời. Một mùa – một đời, con người ta vẫn thế, đẹp lung linh tỏa sáng lòng nhân ái và biết ơn. Dẫu ân nghĩa có nhỏ nhoi cũng khắc ghi trong lòng và cố công đền đáp, huống hồ gì tình cảm mà mế dành cho con sâu nặng và bao la như trời như biển! Suốt cả cuộc đời, hình ảnh “lửa hồng soi tóc bạc” sẽ dõi theo con trên đường con đi tới. Lòng con sẽ ấm áp biết bao nhiêu mỗi khi nhớ về “lửa hồng soi tóc bạc”, ấm không bởi vì bếp lửa hồng mà ấm vì ngọn lửa ân tình thủy chung sâu sắc mế đã trao cho con hôm nào.

Trong cả ba khổ thơ trên tác giả đều dùng danh xưng “con” để tự gọi mình, một cách gọi thấm đượm tình cảm và tràn đầy thiết tha trìu mến. “Con” làm cho tác giả nhỏ bé lại giữa vòng tay ấm áp của mế, của người anh, của thằng em. Mế, người anh, thằng em vừa là những người cụ thể vừa mang tính khái quát điển hình, nhân dân Tây Bắc ai cũng là mế, là anh, là em của những người chiến sĩ miền xuôi, ai cũng có những tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Vì những tình cảm đó mà người con miền xuôi đã gắn chặt tâm hồn mình với Tây Bắc:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?

Chỉ bằng hai nét vẽ phác đơn sơ, mộc mạc, hình ảnh thơ đã hiện lên mang đậm dấu ấn Tây Bắc: bản sương giăng – đèo mây phủ. Phải yêu Tây Bắc lắm, phải gắn bó với Tây Bắc thật nhiều, Chế Lan Viên mới có thể đặc tả Tây Bắc bằng hai hình ảnh thật đẹp, thật điển hình và có chiều sâu như thế. Không yêu sao được, không gắn bó sao được, khi suốt đoạn đường mười năm kháng chiến gian khổ con đã ở đây, đã sống trên mảnh đất này, đã đón nhận biết bao nhiêu là tình nghĩa nồng ấm thâm sâu. Con người, ai cũng có trái tim, ai cũng biết rung động, biết thương yêu. Chế Lan Viên là một con người, hơn nữa lại là một con người biết sống sâu với cuộc đời, nên câu hỏi “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?” chỉ là một câu hỏi tu từ, một câu hỏi tự vấn lòng mình – tự vấn để nhận ra và khẳng định thêm lên tình cảm dạt dào thương yêu lúc nào cũng tràn ngập trong lòng nhà thơ. Phải tự vấn để nhận ra, bởi thường thì cái gì quá quen thuộc, quá thân thương, quá gần gũi, con người ta thường dễ lãng quên, dễ bỏ qua, và chỉ nhận ra khi nó không còn ở bên mình. Chế Lan Viên không phát hiện ra điều gì mới, nhưng ông đã tìm ra cách diễn đạt rất mới, rất sâu cho phát hiện của mình:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

“Đã hóa tâm hồn!”. “Đã” chứ không phải là “bỗng”, là “chợt”… Từ “đã” là một từ rất hay và có giá trị trong câu thơ này của Chế Lan Viên. Khi ta ở, đất chỉ là vật vô tri vô giác, thế mà khi ta đi xa, thì mảnh đất ấy là vương vấn mãi tâm hồn ta, một phần tâm hồn ta đã để lại trên mảnh đất này. Mà tâm hồn, thiếu nó thì con người đâu còn là mình nữa, khi ra đi đất không còn là vật vô tri vô giác nữa mà là một phần máu thịt, một phần con người của ta. Mảnh đất đậm tình nghĩa ấy đã hóa thân vào tâm hồn ta, và tâm hồn ta giờ đây đã mang hình đất mẹ! Sự hóa thân ấy đâu phải một sớm một chiều, mà tình đất đã thấm nhuần trong tâm hồn ta theo từng ngày từng ngày ta sống trong nghĩa tình sâu nặng ở đây! Đất đã hóa tâm hồn ta từ lâu lắm rồi, mà nay khi đi xa, ta mới chợt nhận ra đấy thôi! Mới chợt nhận ra mảnh đất này đã thấm không biết bao nhiêu máu xương đổ xuống; mới chợt nhận ra mảnh đất này đã đón nhận không biết bao nhiêu tâm hồn trở về với lòng đất mẹ; mới chợt nhận ra mảnh đất này đầy tràn thấm đượm tình nghĩa quân dân; mới chợt nhận ra một góc tâm hồn mình, một phần cuộc sống trong những tháng năm đẹp nhất đời người đã gởi lại nơi mảnh đất ấy rồi!

Thơ Chế Lan Viên là thế, luôn nặng suy tư suy tưởng và đậm chất triết lý. Điều này làm cho không ít người ngán ngại đọc thơ ông, nhưng khi đã hiểu rồi – dù chỉ hiểu rất mơ hồ và mới khám phá được một phần – thì lại yêu đến cuồng nhiệt, say mê. Bởi vì tính triết lý trong thơ ông không khô khan, công thức và xa lạ mà triết lý trong thơ ông rất gần gũi, rất tình cảm mà cũng rất mềm mại, như trường hợp hai câu thơ trên. Chế Lan Viên không chỉ tìm ra chân lý bằng khối óc mà còn bằng trái tim – một trái tim nhạy cảm và trữ tình, nên những vấn đề triết lý trong thơ ông chính là triết lý của trái tim. Mà những gì bắt nguồn từ trái tim đều dẫn đến trái tim.

“Tiếng hát con tàu” là một bài thơ hay và gắn liền với tên tuổi Chế Lan Viên. Bài thơ được trau chuốt nhiều về nghệ thuật, tuy là thơ tuyên truyền cho đường lối của Đảng nhưng không sa vào minh họa mà rất đậm chất thơ và sâu nặng nghĩa tình. “Tiếng hát con tàu” hơn thế nữa còn là một minh chứng cho sự chuyển mình của Chế Lan Viên từ một Chế Bồng Hoan đau nỗi đau dân nước xứ Chiêm thành, từ một nhà thơ tất cả không ngoài nghĩa khổ đau chuyển mình theo cách mạng, với những vần thơ rạng ngời ánh sáng và trĩu nặng phù sa.

Đất nước lúc nào cũng cần những bàn tay, những khối óc, những trái tim không ngại khó đi đến những vùng sâu. Ngày trước cũng thế và ngày nay cũng thế. Đọc thơ ông, ai cũng muốn mình hóa thành những con tàu cất cao tiếng hát vươn đến mọi miền Tổ quốc, góp sức nhỏ nhoi của mình xây dựng đất nước giàu đẹp hơn. Biết được điều này, chắc hẳn tâm hồn ông sẽ ấm áp biết bao, khi thơ ông đã làm được những điều ông hằng mong muốn, và hơn thế nữa…

7 nhận xét:

Người Đẹp Trai nói...

ui... 10 điểm cơ đấy :D
ủa mà tao chỉ biết có Chế Bồng Nga à, bộ có Chế Bồng Hoan nữa hả mày?

Alex nói...

10 diem... Ca cuoc doi hoc van tao chi mong duoc 8 thoi...

KHOAI MÌ nói...

Chi ui, that su chi con hoanh trang hon em qua troi luon do nha. hihii. doc blog chi, thay cho rat hanh phuc. Chuc mung ong xa, ba xa Diem Mi nhen

LHP 97-00 nói...

thay mat LHP'ers 97-00 ... choáng.. ng~a cái dung`

LHP 97-00 nói...

Lop truong A1 co the cho copyright de minh post len blog lhp cho nó sôi dong. Chîu hôn?

Yelaw ® nói...

@ Duat: CLV tên thật là Phan Ngọc Hoan, nên lấy tên Hoan ghép với họ Chế Bồng, tự xưng mình là vua Chiêm Thành đó mà
@ LHP 97-00: chịu chứ sao hông chịu, hehe

Na nói...

Đúng rùi, ủng hộ nhiệt tình bài của con gái sẽ được công bố lên LHP97-00 YEAHHHHHHH