28 tháng 4, 2007

Tiếng hát con tàu




Bài thi học kỳ I năm 12, phân tích một đoạn trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, được cô giám khảo và cả tổ Văn trường PTTH chuyên Lê Hồng Phong hào phóng cho điểm 10. Trong không khí tưng bừng hân hoan mừng 32 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, post bài này lên đây như góp thêm một tiếng vỗ cho tràng pháo tay thêm xôm tụ…



Thơ không phải đưa ru mà còn thức tỉnh
Không phải chỉ “ơ hời”, mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan…
(Chế Lan Viên)

Chế Lan Viên, cũng như bao nhà thơ khác: Xuân Diệu, Huy Cận… đều có sự chuyển mình rõ rệt từ sau Cách mạng tháng tám, theo từng bước đi của dân tộc. Dân tộc Việt Nam – một dân tộc nhỏ bé vừa mới vùng lên tự giải phóng, lại phải tiếp tục cầm súng chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ của mình, rồi còn đương đầu với những khó khăn thử thách sau chiến tranh để khôi phục lại đất nước chuẩn bị cho công cuộc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội… Lịch sử thăng trầm qua những tháng năm không thể nào quên, còn những vần thơ “đập bàn, quát tháo, lo toan” của Chế Lan Viên – may mắn thay – cũng đã để lại cho đời những âm ba không thể nào quên. Một trong những bài thơ đó là “Tiếng hát con tàu” – được tác giả viết khi đất nước đang sôi nổi trong kế hoạch xây dựng lại những vùng sâu, vùng xa, những mảnh đất trước đây là quê hương cách mạng.

Tuy là thơ tuyên truyền cho sự kiện chính trị, cho đường lối của Đảng; tuy là những vần thơ “đập bàn, quát tháo, lo toan” nhưng những vần thơ trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên không khô khan cứng nhắc mà rất mượt mà tình cảm và sục sôi bầu nhiệt huyết của trái tim. Chính vì thế, thơ Chế Lan Viên đã đến được với quần chúng nhân dân, có tác dụng rõ rệt trong công cuộc dựng xây lại đất nước. Trong “Tiếng hát con tàu”, cái tình cái lý như hòa lẫn vào nhau, như kêu gọi thúc giục mọi người mau mau lên đường:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Với Chế Lan Viên, sự ra đi đến những vùng đất mới – cụ thể ở đây là Tây Bắc – không chỉ là sự ra đi mà còn là sự trở về. Trở về với nhân dân, với cội nguồn cách mạng, cũng chính là sự trở về với bản thân mình, với tâm hồn mình, với ngọn nguồn sự sống ở mỗi con người. Ta bắt gặp ở đây năm hình ảnh so sánh liên tiếp: nai về suối cũ/ cỏ đón giêng hai/ chim én gặp mùa/ đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa/ chiếc nôi ngừng gặp cánh tay đưa. So sánh làm nâng cao ý nghĩa biểu cảm cho thơ, song cũng thường hay gây nhàm chán. Nhưng với Chế Lan Viên thì không. Mỗi hình ảnh so sánh của ông đều có sức gợi mở rất lớn. Khi mỗi người là nai, là cỏ, là chim én, là đứa trẻ thơ đói lòng, là chiếc nôi ngừng – những vật thể nhỏ bé, yếu ớt và cần sự chở che, tiếp sức, thì nhân dân là dòng suối cũ tươi mát thân thương, là mùa xuân tràn đầy nhựa sống và ấm áp biết bao, là bầu sữa ngọt thơm nuôi đứa bé lớn lên, là cánh tay tiếp thêm sức mạnh cho chiếc nôi ngừng lại tiếp tục đưa… Nhân dân – từ muôn đời nay vẫn vậy, vẫn là nơi thân thương nhất, yên bình nhất và có thể đem đến nguồn lực căng tràn cho mỗi người con sống trong lòng nhân dân. Khổ thơ như một lời reo vui, một niềm hân hoan khi được trở về với nhân dân, với đồng bào, với quê hương cách mạng, cùng nhau xây dựng lại mảnh đất này.

“Nhân dân” ở đây không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà còn rất cụ thể, rất gần gũi thân thương: người anh du kích, người em liên lạc, người mẹ từng nuôi giấu chiến sĩ. Bao nhiêu hình ảnh thân thương ùa về trong tâm tưởng nhà thơ:

Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Sừng sững giữa đoạn thơ là hình ảnh chiếc áo nâu – giản dị nhưng có sức tỏa sáng rất lớn. Hình ảnh chiếc áo nâu được hoán dụ để nói về người anh du kích của tác giả - chiếc áo nâu gắn liền với đời sống chiến đấu “anh mặc đêm công đồn”, chiếc áo nâu gắn liền với đói nghèo gian khổ “suốt một đời vá rách”, chiếc áo nâu gắn liền với tình cảm thiêng liêng: tình anh em, tình đồng bào, đồng chí. Cũng có thể hiể sâu hơn rằng chiếc áo nâu mà anh trao lại đêm cuối cùng trước lúc hy sinh ấy chứa nặng bao tình cảm, bao niềm tin, bao điều mong mỏi các em mình sẽ tiếp tục bước đi trên con đường kháng chiến gian lao mà anh đã đi qua – tiếp tục bước đi để rồi sẽ tới. Chỉ một đoạn thơ giản di mà nồng ấm tình người, Chế Lan Viên đã gởi gắm vào đấy một truyền thống – truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất quật cường của nhân dân Tây Bắc. Tiếp nối truyền thống ấy là cả một cộng đồng, những lớp người từ em bé đến cụ già đều mỗi người một việc góp phần vào cuộc kháng chiến toàn dân:

Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Đọc thơ Chế Lan Viên, ta thường hay gặp những hình ảnh đối lập. Trong đoạn thơ trên, nghệ thuật đối lập được khai thác triệt để: rừng thưa/ rừng rậm; sáng/ chiều; mười năm/ chưa mất một phong thư. Chế Lan Viên thật tài hoa tài tình khi khắc họa công việc của “thằng em liên lạc” – hai tiếng “thằng em” nghe sao mà đời thường, gần gũi và quá đỗi thân thương! Hai tiếng “thằng em” còn tạo cho người đọc cảm giác nhân vật đang được nhắc đến ấy chỉ là một cậu bé vừa bước qua tuổi lớn, ấy thế mà công việc đưa thư này dường như quá sức đối với em. Quá sức, bởi vì công việc đưa thư ấy đòi hỏi con người phải hoạt động trong chiều rộng của không gian và cả chiều dài của thời gian: rừng rậm, rừng thưa, bản Na, bản Bắc; sáng, chiều và suốt “mười năm tròn”. Những từ ngữ đối lập ở đây có tác dụng mở rộng không gian, kéo dài thời gian, và – kỳ diệu thay – còn nâng cao tầm vóc của thằng em liên lạc “chưa mất một phong thư”! Với một công việc dường như quá sức mà người em này đã hoàn thành, và hoàn thành một cách xuất sắc, phải chăng ở em có sức mạnh diệu kỳ của tình yêu quê hương đất nước? Chế Lan Viên đã viết về em với tất cả lòng trân trọng, yêu thương và trìu mến.

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi

“Con nhớ mế!”. Ba tiếng thân thương giản dị như bật lên một cách bất ngờ không kìm nén từ sâu tận đáy lòng nhà thơ. “Con nhớ mế!”. Một nỗi nhớ dâng trào thiết tha sâu nặng, nỗi nhớ dường như luôn âm ỉ trong lòng nhà thơ “trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Không nhớ sao được, khi mà suốt một mùa dài con đau con bệnh là suốt một mùa dài mế thức trắng bên con, lo lắng cho con, chăm sóc cho con, và cả vỗ về ru giấc cho con. Không nhớ sao được, với người mẹ ruột mang nặng đẻ đau sinh ra ta, sự chăm lo ấy là đã quý lắm rồi, càng đáng quý hơn khi “con với mế không phải hòn máu cắt”, mà mế vẫn dành trọn cho con ngọn lửa ấm áp thiêng liêng của tình mẫu tử thâm sâu. Chỉ một mùa ở với mế thôi, thế mà ân nghĩa nặng đến nỗi con mang theo suốt cả một đời. Một mùa – một đời, con người ta vẫn thế, đẹp lung linh tỏa sáng lòng nhân ái và biết ơn. Dẫu ân nghĩa có nhỏ nhoi cũng khắc ghi trong lòng và cố công đền đáp, huống hồ gì tình cảm mà mế dành cho con sâu nặng và bao la như trời như biển! Suốt cả cuộc đời, hình ảnh “lửa hồng soi tóc bạc” sẽ dõi theo con trên đường con đi tới. Lòng con sẽ ấm áp biết bao nhiêu mỗi khi nhớ về “lửa hồng soi tóc bạc”, ấm không bởi vì bếp lửa hồng mà ấm vì ngọn lửa ân tình thủy chung sâu sắc mế đã trao cho con hôm nào.

Trong cả ba khổ thơ trên tác giả đều dùng danh xưng “con” để tự gọi mình, một cách gọi thấm đượm tình cảm và tràn đầy thiết tha trìu mến. “Con” làm cho tác giả nhỏ bé lại giữa vòng tay ấm áp của mế, của người anh, của thằng em. Mế, người anh, thằng em vừa là những người cụ thể vừa mang tính khái quát điển hình, nhân dân Tây Bắc ai cũng là mế, là anh, là em của những người chiến sĩ miền xuôi, ai cũng có những tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Vì những tình cảm đó mà người con miền xuôi đã gắn chặt tâm hồn mình với Tây Bắc:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?

Chỉ bằng hai nét vẽ phác đơn sơ, mộc mạc, hình ảnh thơ đã hiện lên mang đậm dấu ấn Tây Bắc: bản sương giăng – đèo mây phủ. Phải yêu Tây Bắc lắm, phải gắn bó với Tây Bắc thật nhiều, Chế Lan Viên mới có thể đặc tả Tây Bắc bằng hai hình ảnh thật đẹp, thật điển hình và có chiều sâu như thế. Không yêu sao được, không gắn bó sao được, khi suốt đoạn đường mười năm kháng chiến gian khổ con đã ở đây, đã sống trên mảnh đất này, đã đón nhận biết bao nhiêu là tình nghĩa nồng ấm thâm sâu. Con người, ai cũng có trái tim, ai cũng biết rung động, biết thương yêu. Chế Lan Viên là một con người, hơn nữa lại là một con người biết sống sâu với cuộc đời, nên câu hỏi “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?” chỉ là một câu hỏi tu từ, một câu hỏi tự vấn lòng mình – tự vấn để nhận ra và khẳng định thêm lên tình cảm dạt dào thương yêu lúc nào cũng tràn ngập trong lòng nhà thơ. Phải tự vấn để nhận ra, bởi thường thì cái gì quá quen thuộc, quá thân thương, quá gần gũi, con người ta thường dễ lãng quên, dễ bỏ qua, và chỉ nhận ra khi nó không còn ở bên mình. Chế Lan Viên không phát hiện ra điều gì mới, nhưng ông đã tìm ra cách diễn đạt rất mới, rất sâu cho phát hiện của mình:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

“Đã hóa tâm hồn!”. “Đã” chứ không phải là “bỗng”, là “chợt”… Từ “đã” là một từ rất hay và có giá trị trong câu thơ này của Chế Lan Viên. Khi ta ở, đất chỉ là vật vô tri vô giác, thế mà khi ta đi xa, thì mảnh đất ấy là vương vấn mãi tâm hồn ta, một phần tâm hồn ta đã để lại trên mảnh đất này. Mà tâm hồn, thiếu nó thì con người đâu còn là mình nữa, khi ra đi đất không còn là vật vô tri vô giác nữa mà là một phần máu thịt, một phần con người của ta. Mảnh đất đậm tình nghĩa ấy đã hóa thân vào tâm hồn ta, và tâm hồn ta giờ đây đã mang hình đất mẹ! Sự hóa thân ấy đâu phải một sớm một chiều, mà tình đất đã thấm nhuần trong tâm hồn ta theo từng ngày từng ngày ta sống trong nghĩa tình sâu nặng ở đây! Đất đã hóa tâm hồn ta từ lâu lắm rồi, mà nay khi đi xa, ta mới chợt nhận ra đấy thôi! Mới chợt nhận ra mảnh đất này đã thấm không biết bao nhiêu máu xương đổ xuống; mới chợt nhận ra mảnh đất này đã đón nhận không biết bao nhiêu tâm hồn trở về với lòng đất mẹ; mới chợt nhận ra mảnh đất này đầy tràn thấm đượm tình nghĩa quân dân; mới chợt nhận ra một góc tâm hồn mình, một phần cuộc sống trong những tháng năm đẹp nhất đời người đã gởi lại nơi mảnh đất ấy rồi!

Thơ Chế Lan Viên là thế, luôn nặng suy tư suy tưởng và đậm chất triết lý. Điều này làm cho không ít người ngán ngại đọc thơ ông, nhưng khi đã hiểu rồi – dù chỉ hiểu rất mơ hồ và mới khám phá được một phần – thì lại yêu đến cuồng nhiệt, say mê. Bởi vì tính triết lý trong thơ ông không khô khan, công thức và xa lạ mà triết lý trong thơ ông rất gần gũi, rất tình cảm mà cũng rất mềm mại, như trường hợp hai câu thơ trên. Chế Lan Viên không chỉ tìm ra chân lý bằng khối óc mà còn bằng trái tim – một trái tim nhạy cảm và trữ tình, nên những vấn đề triết lý trong thơ ông chính là triết lý của trái tim. Mà những gì bắt nguồn từ trái tim đều dẫn đến trái tim.

“Tiếng hát con tàu” là một bài thơ hay và gắn liền với tên tuổi Chế Lan Viên. Bài thơ được trau chuốt nhiều về nghệ thuật, tuy là thơ tuyên truyền cho đường lối của Đảng nhưng không sa vào minh họa mà rất đậm chất thơ và sâu nặng nghĩa tình. “Tiếng hát con tàu” hơn thế nữa còn là một minh chứng cho sự chuyển mình của Chế Lan Viên từ một Chế Bồng Hoan đau nỗi đau dân nước xứ Chiêm thành, từ một nhà thơ tất cả không ngoài nghĩa khổ đau chuyển mình theo cách mạng, với những vần thơ rạng ngời ánh sáng và trĩu nặng phù sa.

Đất nước lúc nào cũng cần những bàn tay, những khối óc, những trái tim không ngại khó đi đến những vùng sâu. Ngày trước cũng thế và ngày nay cũng thế. Đọc thơ ông, ai cũng muốn mình hóa thành những con tàu cất cao tiếng hát vươn đến mọi miền Tổ quốc, góp sức nhỏ nhoi của mình xây dựng đất nước giàu đẹp hơn. Biết được điều này, chắc hẳn tâm hồn ông sẽ ấm áp biết bao, khi thơ ông đã làm được những điều ông hằng mong muốn, và hơn thế nữa…

26 tháng 4, 2007

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta...




Câu chuyện này đọc được bên blog của cô Thủy Hiền, thấy thú vị nên đã xin phép đàng hoàng để copy về đây (một hành động đáng hoan nghênh nhân ngày SHTT thế giới hehe)


Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta...

Chợt thấy câu nói nổi tiếng này ở blog của Hoan, rồi nghe em kể về "nguồn gốc" của nó mà cảm thấy... buồn vì chúng ta đã tham gia Công ước Berne rồi mà. Tôi từng nghe bài hát "Khát vọng tuổi trẻ" rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ đọc bản gốc của lời bài hát. Chẳng biết nhạc sĩ có ghi chú đã "mượn" câu nói này từ đâu không nhỉ? Hôm qua, chương trình "Chiếc nón kỳ diệu" cũng có một ô chữ về bài hát này. MC cũng đề cập tới câu nói nổi tiếng này, nhưng cũng "lờ" đi nguồn gốc của nó Tôi tự hỏi có ai thắc mắc như mình không nhỉ?

Image

Arlington Cemetary, Alexandria, the US

Bức ảnh này tôi chụp vào tháng 01/2006 ở nghĩa trang quốc gia Arlington, Mỹ. Và đây là câu nói nổi tiếng trong bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống John F. Kennedy vào ngày 20/01/1961:

Hỡi những công dân Mỹ: đừng hỏi đất nước có thể làm gì cho mình - hãy hỏi mình có thể làm gì cho đất nước.

Lưu ý: bài viết này chỉ nhằm mục đích thông tin


Lưu ý của Yel: ảnh minh họa chỉ nhằm mục đích... minh họa, ko liên quan đến nội dung bài viết. Ảnh chụp nhân chuyến đi MHX năm 2002 tại ấp Trà Uôn, xã Song Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Lâu lâu coi lại hình thấy nhớ mọi người quá!

25 tháng 4, 2007

Cổ vũ sáng tạo




Ngày mai 26 tháng 4 năm 2007 (nhằm ngày mồng 10 tháng 3 năm Đinh Hợi) là một ngày có 3 cái đặc biệt:

- Ngày Giỗ tổ Hùng Vương đầu tiên mà người lao động được nghỉ và hưởng nguyên lương, nâng tổng số ngày nghỉ lễ, Tết hưởng nguyên lương lên thành 9 ngày (8 ngày còn lại gồm 4 ngày Tết cổ truyền, 1 ngày Tết dương lịch, 30/4, 1/5 và 2/9).

- Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới với chủ đề "Cổ vũ sáng tạo".

- Kỷ niệm 25 năm ngày sinh (tính theo ngày ta) của mình hehe

Sau đây là thông điệp của Tổng Giám đốc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) KAMIL IDRIS:

Ngày 26 tháng 4 hàng năm, chính phủ các nước và các tổ chức trên toàn thế giới cùng WIPO kỷ niệm Ngày sở hữu trí tuệ thế giới. Chủ đề kỷ niệm của chúng ta năm nay là “Cổ vũ sáng tạo”.

Với nhiều người, mối liên hệ giữa sở hữu trí tuệ và sáng tạo là rất mơ hồ. Trong khi “sáng tạo” gợi tưởng đến thế giới của các nghệ sĩ, các nhà soạn nhạc, các nhà thơ và các nhà khám phá thì “sở hữu trí tuệ” lại thường làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của luật sư trong trang phục xám mầu giam mình trong kiện cáo. Nhưng nhìn nhận một cách kỹ lưỡng hơn thì sẽ thấy rằng chính hệ thống sở hữu trí tuệ đã tiếp sức và nuôi dưỡng các nhà sáng tạo đó.

Khi quan sát, ở khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy những hình ảnh sống động của sở hữu trí tuệ:

- trong những sắc mầu và hình ảnh của một quầy bán vé đầy sức cuốn hút của Bollywood, mang lại sự giải trí và việc làm cho vô số người;

- trong những bài hát của ngôi sao Ma-li đang lên, mà cùng với đĩa CD của ca sỹ được bán thì những giai điệu châu Phi cũng được truyền tải đến thính giả toàn thế giới và ca sỹ sống được nhờ âm nhạc của chính mình;

- trong định hướng hoạt động của một tổ chức phi chính phủ phi lợi nhuận, một sáng chế được tạo ra nhằm mang nước sạch đến những làng mạc xa xôi;

- trong cách dệt phức tạp làm nên tấm thảm I-ran, mang nhãn hiệu đã được đăng ký để xác nhận tính chân thực của nó;

- trong các phụ kiện hợp trời trang nhất của các nhà thiết kế Nhật Bản;

- trong những phương pháp điều trị y học mới dựa trên những nghiên cứu sáng tạo ở Trung Quốc, Gioóc-đa-ni và Cu-ba;

- trong cuốn sách bán chạy nhất của một bà mẹ trẻ mang đến sự diệu kỳ cho hàng triệu người, tạo ra vô số việc làm, thu về vô số lợi nhuận từ phim ảnh và các quyền thương mại.

Cổ vũ sáng tạo tức là tôn vinh các tài năng sáng tạo và đổi mới, nhờ đó mà thế giới và tương lai của chúng ta được xây dựng và đó cũng là mục tiêu mà sở hữu trí tuệ hướng tới. Đó cũng chính là định hướng hoạt động của WIPO và là lý do để kỷ niệm Ngày sở hữu trí tuệ thế giới.

Còn đây là một đoạn trong một tiểu luận mình đã làm về IP:

...Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, sự ra đời và lên ngôi của nền kinh tế tri thức, khái niệm “quyền sở hữu” của người La Mã cổ đại đã dần trở nên chật hẹp. Bên cạnh tài sản hữu hình hay tài sản vật chất ngày một tăng lên, trong xã hội ngày nay còn xuất hiện và phát triển thêm một loại tài sản mới với những điểm khác biệt cơ bản - tài sản vô hình hay tài sản trí tuệ mà ở đó, việc xác lập và bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với các loại tài sản này cũng là một vấn đề cần thiết phải đặt ra.

Hiểu theo nghĩa chung nhất, sở hữu trí tuệ được định nghĩa như các sáng tạo của trí tuệ trên cơ sở pháp luật mà đối với chúng nhà nước dành cho các cá nhân, pháp nhân sự độc quyền trong một thời hạn nhất định nhằm khai thác đối tượng và ngăn ngừa người thứ ba khai thác đối tượng một cách bất hợp pháp. Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

Khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

Theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu công nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo ra và áp dụng các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… và bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức sử dụng chỉ dẫn địa lý, sử dụng bí mật kinh doanh trong sản xuất kinh doanh và các đối tượng khác.

Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu công nghiệp là quyền dân sự của cá nhân hay pháp nhân là chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp, dùng để chỉ quyền hợp pháp đối với các sáng tạo như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu… và quyền ngăn chặn những hành vi xâm phạm hoặc cạnh tranh không lành mạnh đối với các quyền của những người sáng tạo ra hoặc người sử dụng hợp pháp các đối tượng đó.

Từ đó, ta có thể hiểu một cách chung nhất: Quyền sở hữu công nghiệp là tổng thể các quyền sở hữu, quyền sử dụng của cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Hay nói cách khác, quyền sở hữu công nghiệp là tổng thể các quyền trên cơ sở pháp luật mà nhà nước dành cho các cá nhân, pháp nhân sự độc quyền trong một thời hạn nhất định nhằm khai thác các đối tượng sở hữu công nghiệp và ngăn ngừa người thứ ba khai thác các đối tượng sở hữu công nghiệp một cách bất hợp pháp.

Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, theo quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm:

- Sáng chế: là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.

- Kiểu dáng công nghiệp: là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.

- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn: là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.

- Nhãn hiệu: là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

- Tên thương mại: là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

- Chỉ dẫn địa lý: là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

- Bí mật kinh doanh: là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh...

22 tháng 4, 2007

Khắc nhập, khắc xuất, lại khắc nhập




Truyện cổ tích "cây tre trăm đốt" thì chắc ai cũng biết. Ngày xưa có một chàng khờ đi hỏi vợ là con gái nhà phú ông, bị phú ông bảo vào rừng chặt cây tre trăm đốt đem về dựng rạp làm lễ cưới. Chàng khờ đi vào rừng, đi mãi đi mãi cũng không kiếm được cây tre nào có một trăm đốt, bèn ngồi khóc huhu...

Sao các truyện cổ tích hay có các nhân vật chính ngồi khóc hu hu và chờ Bụt hiện lên hỏi "Vì sao con khóc" vậy nhỉ? Hay là bởi vì tâm lý dân gian mình không bao giờ chịu tự nỗ lực, tự cố gắng mà chỉ toàn chờ đợi sự giúp đỡ từ những thế lực siêu nhiên bên ngoài? Cô Tấm ngồi khóc hu hu để Bụt cho bầy chim tới nhặt thóc giúp và cho quần áo đẹp mặc đi dự hội. An Dương Vương nhờ Thần Kim Quy xây thành Cổ Loa, rồi cũng nhờ Thần Kim Quy này cho móng làm nỏ thần giúp đánh đuổi Triệu Đà. Rồi Lê Lợi đánh thắng giặc Minh cũng là nhờ mượn được cây kiếm thần của Thần Kim Quy, sau này phải trả kiếm lại ở hồ Hoàn Kiếm. Ngay cả đến em bé Thánh Gióng mới 3 tuổi đã đánh thắng giặc Ân, cứ tưởng đó là sản phẩm của đại đoàn kết toàn dân cả làng góp gạo cho ăn, ai dè cũng là thần từ trên trời xuống giúp nên đánh thắng giặc xong lại bay thẳng về trời.

Quay trở lại truyện "cây tre trăm đốt", sau khi được ông Bụt giúp đỡ, chàng khờ đã có bí quyết "khắc xuất, khắc nhập" mà sử dụng cho từng hoàn cảnh nhất định. Ví dụ như khi cần di chuyển thì "khắc xuất" thành 100 đốt tre, rồi khi cần dựng rạp thì lại "khắc nhập" thành cây tre trăm đốt, túm lại là linh hoạt tùy hoàn cảnh và tùy mục đích sử dụng mà ứng biến. Nhờ vào sự linh hoạt tài tình này mà chàng khờ lấy được con gái phú ông, sinh con đẻ cái con đàn cháu đống. Ngày nay con cháu của chàng khờ cũng được tổ tiên truyền lại bí quyết "khắc xuất, khắc nhập". Cũng tùy hoàn cảnh và mục đích sử dụng mà "khắc xuất, khắc nhập" sao cho công việc của mình được thuận lợi nhất. Thế mới có chuyện "khắc xuất" thành nhà tách riêng với đất, rồi lại "khắc nhập" thành đất gắn liền với nhà, để bây giờ câu chuyện giấy tờ nhà đất của chúng ta có tất cả các tập sau:

- Tập 1: Giấy trắng (giấy tờ hợp lệ) như: bằng khoán, giấy phép xây dựng, quyết định hoặc giấy chứng nhận của UBND cấp huyện công nhận quyền sở hữu nhà...

- Tập 2: Giấy đỏ cũ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp theo Luật đất đai năm 1999

- Tập 3: Giấy hồng cũ: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cấp theo Nghị định 60 năm 1994 -> "khắc nhập"

- Tập 4: Giấy đỏ mới: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp theo Luật đất đai năm 2003 và Nghị định 181 năm 2004

- Tập 5: Giấy hồng vừa vừa (nghĩa là mới hơn giấy hồng cũ và cũ hơn giấy hồng mới): Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cấp theo Nghị định 95 năm 2005 -> "khắc xuất"

- Tập 6: Giấy hồng mới: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp theo Luật Nhà ở và Nghị định 90 năm 2006 -> lại "khắc nhập".

Kết thúc truyện "Cây tre trăm đốt", cái mà mình ấn tượng nhất là hình ảnh chàng khờ, sau khi từ chỗ ông Bụt về, vai vác 100 đốt tre, mặt mày hí hửng, tay chân hớn hở, vừa đi vừa lẩm bẩm "khắc nhập, khắc xuất, lại khắc nhập..."

Bây giờ thì chỉ mới mở đầu tập 6 của truyện, con cháu của chàng khờ chắc cũng khoảng tám, chín chục triệu người, sau khi từ chỗ ông Nguyên và ông Dựng về, vai vác trăm tờ giấy trắng có, hồng có, đỏ có, mặt mày ngơ ngác, tay chân rã rời, vừa đi vừa lầm bầm "khắc nhập, khắc xuất, lại khắc nhập..."

Quy luật Phủ định của phủ định trong triết học Mac_Lenin bảo rằng: Mọi sự vật hiện tượng vận động theo hướng dường như lặp lại cái ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn, phát triển hơn. Trong trường hợp này, dường như quy luật trên mới đúng có một nửa...

21 tháng 4, 2007

Thử xem ai giống mình nào?




Sau đây là kết quả của 3 lần thử với 3 tấm hình khác nhau.

Lần 1: Đây là tấm hình mình thích nhất.

Image

Có nhiều người nổi tiếng giống mình chưa nè?

Lần 2: Đây là tấm hình mình thấy mình đẹp nhất

Image

Ac ac có cả Monica Lewinsky nữa à?

Lần 3: Đây là tấm hình có vẻ giống mình nhất

Image

Kết quả: có 4 người có mặt trong 2/3 kết quả: Kelly Hu (hổng biết là ai nữa), Raquel Welch (cũng hổng biết luôn), Lalaine (sao thấy quen quen), Mandy Moore (à cái này thì biết). Đây có lẽ là 4 người giống mình nhất.

Lần 3 có tới 4/4 người giống mình nhất. Lần 2 có 3/4 còn lần 1 chỉ có 1/4 thôi. Vậy là hình 3 giống mình nhất, còn hình 1 là không giống nhất (trong khi đó hình 1 toàn giống mấy người nổi tiếng mới chết chứ!)

Kết luận: hổng biết mình giống ai nữa. Thôi thì mình giống mình vậy. Thế cũng được rồi, chỉ có điều chưa nổi tiếng lắm thôi, hehe

20 tháng 4, 2007

Đêm ấy đêm này




Đêm Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng

Nguyễn Du tắt bớt trăng và vặn thấp ngọn đèn

Em đến với anh đêm thần tiên ấy

Trăng với đèn chuếnh choáng hơi men

.

P.S.: Thơ này của nhà giáo nhân dân Lê Trí Viễn, trích từ tập Người khoa văn, hổng có đồi trụy à nha

19 tháng 4, 2007

Cám ơn buổi chiều




Chiều nay em đi xuống phố

Mặt trời ngủ gật trên cây

Gió như tỏ tình với lá

Đong đưa cánh phượng nói gì



Vô tư em nhìn trong nắng

Lặng thầm ta giữa đám đông

Em như có gì bẽn lẽn

Gieo ta một chút chạnh lòng



Cám ơn đời và nỗi nhớ

Em đi dáng nhỏ thật hiền

Ta xin làm người đứng đợi

Áo dài nón lá che nghiêng



Vẫn có tình đầu tha thiết

Nhìn quen một nụ cười duyên

Gió đang tỏ tình với lá

Ta đang nói gì với em



Cám ơn buổi chiều ấm áp

Em con chim nhỏ bay về

Lòng ta từ lâu im vắng

Bây giờ bỗng có tiếng ve

18 tháng 4, 2007

Trưa





Trưa nay em đến ngủ phòng anh

Thăm thẳm trời cao, thăm thẳm xanh

Anh trút tình thương trong sắc biếc

Ru cho em ngủ giấc trưa lành

Chế Lan Viên

17 tháng 4, 2007

Buổi sáng




Anh đã mở cửa ra chưa?

Những giọt lung linh gieo trên từng bậc đá

Có thể lá khô rơi về từ tháng ngày xa lạ

Anh hãy cứ mỉm cười

Em biết bình minh trong sáng sẽ tươi lại trên môi

Anh hiểu mà

Em biết!

Se sắt mùa đông không lạnh nổi tiếng vĩ cầm tha thiết

Buổi sáng trong veo mở cửa ngẩng lên trời

Hãy còn một vì sao!

Long lanh trong ngày tháng xa xôi

Em sẽ lặng im trước khi giọt nắng đầu tiên thức giấc

Anh thử nghe xem

Những cánh ong vo vo giữa buổi sáng mùa xuân đi tìm mật

Mở cửa đi anh, ngày biếc đã xanh rồi!

16 tháng 4, 2007

Chàng trai 17 tuổi




Entry thứ 8 - một con số thật là đặc biệt - mình sẽ dùng để post lại bài viết ngày xưa mình đã viết về một chàng trai 17 tuổi trên đặc san "Khoảng trời riêng" - một sản phẩm của tài năng và trí tuệ A1 Lê Hồng Phong 97-00 mà từ đó đến nay, mỗi khi nhắc đến nó, các thành viên A1 đều tấm tắc tự hào.


Sơn nhờ mình viết cho Sơn. Thoạt đầu mình nghĩ sẽ có một bài viết thật ấn tượng, thật dễ thương nhưng đến bây giờ dường như đã là chuyện không tưởng! Thật là khó khăn khi muốn diễn đạt đầy đủ cái riêng của mình mà không lạc lõng với cái chung, cũng như khi nói rằng sở thích lớn nhất của Sơn là ... "ngủ" mà không làm mọi người chê Sơn lười biếng. Với thân hình "qua cầu gió bay" và bộ mặt của chàng trai ... 71 tuổi, ấn tượng đầu tiên Sơn tạo ra hết sức mạnh mẽ: 2 chữ VÔ DZUYÊN to tướng! Bản tính không ồn ào, ghét sự giả tạo, hình thức, Sơn lẳng lặng tham gia hết phong trào này đến hoạt động kia của lớp. Mình thích chiếc áo số 8, cả khi lập một hattrick lẫn lúc sút một cú penalty cực mạnh bay thẳng vào goal(keeper), lần nào Sơn cũng quay ra cười. Mình thích ngồi nghe Sơn hát, mặc dù chẳng có chút xíu cảm nhận nào về âm nhạc, tự dưng cũng thấy hay hay. Mình thích nhờ Sơn giảng bài, Sơn nắm vấn đề rất nhanh, dù đáp số trong sách ít khi nào chịu giống đáp số của Sơn (lạ ghê!). Sơn học tự tin, tài tử, lúc nào cũng vẫn luôn tập trung cho học tập. Mình biết Sơn đã hy sinh cái sở thích lớn nhất ngồi làm bìa đặc san, để rồi sau đó ngủ bù đến... quên luôn cả người ta! Mình biết Sơn có những ước mơ, hoài bão lớn lao nhưng không thiếu tính thực tế, cùng với những cảm nhận khá tinh tế về thế giới xung quanh... Cứ thế, cái ấn tượng hơi bị hổng đẹp lúc đầu dần được thay thế bằng một cảm giác thật là lạ, thật là ngộ mà không thể gọi tên...


Bây giờ thì chàng trai 17 tuổi đó đã trở thành người đàn ông 25 tuổi rồi... Mình không gọi là Sơn nữa mà gọi bằng chồng... Hình minh họa là chụp năm lớp 12, bài viết này thì viết năm lớp 11, còn chuyện yêu đương là từ hồi lớp 10 lận, hehe

15 tháng 4, 2007

Em không là thánh thần




Em không là thánh thần

Nên có nhiều lầm lỗi

Dù đã bao lần kia

Bao lần em sám hối


Em không là thánh thần

Mới nhiều phen nông nổi

Khi đã dấn thân yêu

Biết đâu mà lọc lõi?


Em không là thánh thần

Nên cứ hay hờn dỗi

Em những muốn được yêu

Cùng trái tim sôi nổi


Em không là thánh thần

Nên chẳng quen chờ đợi

Khao khát một tình yêu

Những điều chưa biết tới


Bởi điều chưa biết tới

Em không là thánh thần!

Em đi tìm bí ẩn

Giữa cuộc đời mông mênh

P.S.: Bài thơ này, cũng như tất cả những bài thơ trước và sau đây, đều không phải là thơ của mình. Mình có một thói quen rất kém văn minh và thiếu chuyên nghiệp (nhất là đối với dân IP như mình), đó là thuộc rất nhiều thơ và hầu như không bao giờ nhớ tên tác giả! (ngoại trừ một số tác giả mà mình yêu thích, ví dụ như trong trường hợp này là thơ của Đoàn Thị Lam Luyến). Hy vọng là các tác giả có thơ được chép trên đây sẽ không phiền lòng khi thơ của mình hay và dễ nhớ hơn tên của mình, nhỉ?

12 tháng 4, 2007

Linh tinh về cái chuyện "ăn"




"Ăn" là một trong "tứ khoái" của con người. Từng giai đoạn khác nhau trong cuộc sống, con người sẽ có những mơ ước khác nhau. Chuyện ăn cũng vậy. Ngày xưa khổ sở thiếu thốn, ước mơ của con người rất đơn giản là “ăn no mặc ấm”. Cuộc sống dần khấm khá lên, ước mơ của con người cũng trở nên cao cấp hơn, không còn là “ăn no mặc ấm” nữa mà phải “ăn ngon mặc đẹp”. Dạo gần đây, ước mơ của con người cũng chuyển hóa giống y như con người, cao cấp thôi chưa đủ, mà con phải “sành điệu”. Ăn ngon mãi thì thành béo phì, vì vậy ước mơ “thời thượng” nhất của con người giờ đây là “ăn kiêng mặc mốt”.

Lâu lắm rồi có đọc một cuốn sách của PGS.TS Trần Ngọc Thêm bàn về văn hóa của người Việt, có một đoạn nói về cái ăn khá độc đáo như sau: “Để bảo đảm quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. Việt Nam là xứ nóng (dương) nên phần lớn các thức ăn đều thuộc loaị bình, hàn (âm). Cơ cấu ăn truyền thống thiên về thức ăn thực vật (âm) và ít thức ăn động vật (dương). Xứ nóng (dương) phù hợp cho việc phát triển mạnh các loài thực vật và thủy sản (âm), xứ lạnh (âm) thì phù hợp cho việc phát triển chăn nuôi các loài động vật với lượng mỡ, bơ sữa phong phú (dương) – như vậy là tự thân thiên nhiên đã có sự cân bằng rồi. Do vậy, ăn theo mùa chính là đã tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để phục vụ con người. Thức ăn đúng theo mùa, mùa nào thức ấy, người xưa gọi là “thời trân”: Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể; Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè… Ăn theo mùa cũng là lúc sản vật ngon nhất, nhiều nhất, rẻ nhất và tươi sống nhất. Không những thế, người Việt sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị (Chuối sau, cau trước; Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm…), đúng trạng thái có giá trị (Tôm nấu sống, bống để ươn; Bầu già thì ném xuống ao, Bí già đóng cửa làm cao lấy tiền…), đúng thời điểm có giá trị (Cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ…). Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả, và vì vậy cũng là những thứ rất giàu chất dinh dưỡng – đó là các món ăn dạng bao tử: động vật có trứng lộn, nhộng, lợn sữa, chim ra ràng, ong non, dế non…, người Nam Bộ có món đuông – một loại ấu trùng kiến dương, sống trong ngọn cây dừa, cau, chà là; thực vật có giá, cốm, măng… Tục ngữ có câu: Cốm hoa vàng, chim ra ràng, gái mãn tang, cà cuống trứng. Không phải ngẫu nhiên mà nhau sản phụ từ lâu được dân gian sử dụng như một loại thuốc bổ quan trọng và hiện được dùng làm nguyên liệu đặc biệt để sản xuất thuốc bổ”.

Nhân nhắc đến “thời điểm ăn có giá trị”, không thể không nhắc đến bậc thầy đã biết vận dụng một cách hết sức tài tình “thời điểm” này: Trạng Quỳnh. Chắc hẳn chúng ta ai cũng còn nhớ chuyện Trạng Quỳnh với những trò mưu mẹo lặt vặt linh tinh, hết chơi xỏ bọn đồng môn đến chơi xỏ cả Chúa lẫn bọn sứ giả xứ Tàu. Chơi xỏ Chúa thì có nhiều, từ chuyện bắt con mèo của Chúa rồi tập cho nó cái gọi là phản xạ có điều kiện đến chuyện ứng dụng cái “thời điểm có giá trị” này để cho Chúa ăn món “Mầm đá”. Chúa thấy ngon khi ăn món Mầm đá nhưng chưa chắc bản thân món Mầm đá đã ngon, quan trọng là Chúa đã bị các điều kiện khách quan lẫn chủ quan xung quanh đánh lừa: một là Chúa quá đói; hai là Chúa đã phải chờ đợi quá lâu; ba là ăn mãi các món sơn hào hải vị, tuy ngon nhưng nhiều khi Chúa cũng thấy nhàm; bốn là món Mầm đá mới lạ đối với Chúa vì tính chất bình dân của nó. Có thể khi ăn món Mầm đá Chúa thật sự cảm thấy ngon. Có thể sau khi ăn món Mầm đá thì Chúa còn đòi ăn thêm vài lần nữa. Nhưng cuối cùng thì Chúa vẫn là Chúa, Chúa không thể cứ ăn món Mầm đá suốt đời mà ngược lại, Chúa sinh ra là để dùng sơn hào hải vị, các sản vật quý hiếm của trời đất. Vì vậy cuối cùng cũng đến lúc Chúa không muốn ăn món Mầm đá nữa (nhiều khi cũng ngạc nhiên sao lúc trước mình thấy nó ngon thế), cũng đến lúc Chúa quay trở về ăn các món sơn hào hải vị luôn được dọn sẵn dành cho mình. Mọi việc phải được trở về đúng với bản chất của nó: Chúa phải khác với dân thường; thức ăn của Chúa phải là các món sơn hào hải vị; còn món Mầm đá, suy cho cùng cũng chỉ là món Mầm đá mà thôi!

P.S.: món ăn trong hình minh họa không phải là món Mầm đá, cũng không phải sơn hào hải vị, mà là món thịt nướng được nướng bởi cái vỉ do bạn Vũ Thụy khệ nệ na từ Hàn Quốc về làm quà cưới cho tụi mình. Cám ơn mày, Thụy ;)

9 tháng 4, 2007

Thôi thì mình tay cứ nắm lấy tay...




1.

Chợt thèm được nắm bàn tay

Để không còn thấy tháng ngày chông chênh…


2.

Nắm tay nhau anh nhé

Đừng buông dù một giây

Đừng để sóng xô đẩy

Cho đôi mình xa nhau…


3.

Thôi thì mình tay cứ nắm lấy tay

Học chim chóc cứ vừa bay vừa hót

Học dòng sông vừa trôi vừa dào dạt

Học bếp than hồng vừa cháy vừa reo…



Tròn bốn tháng từ ngày cưới, cộng với gần chín năm bên nhau…

Cám ơn chồng đã luôn nắm tay vợ thật dịu dàng.

Cám ơn chồng đã luôn mang đến cho vợ cảm giác ấm áp và bình yên.

Cám ơn chồng đã luôn dành trọn vẹn bàn tay của mình cho vợ, dù ai đó có đưa tay ra…

7 tháng 4, 2007

Bong bóng lên trời




Ngày xửa ngày xưa, hình như mình 2 tuổi hay 2 tuổi rưỡi gì đó (chưa đi học mẫu giáo à), một lần được bố mẹ dẫn đi chơi ở Công viên Tao Đàn. Ở đó có nguyên một cái sân khấu măng non hoành tráng, các anh chị lớn 5 - 6 tuổi thay nhau lên hát các bài hát thiếu nhi như Kìa con bướm vàng, Chú ếch con, Con chim non…, hát xong mỗi người sẽ được tặng một cái bong bóng nhỏ hình con chim.

Mình rất thích được tặng bong bóng giống như mấy anh chị, vì thế nằng nặc đòi bố mẹ đăng ký cho lên hát. Theo lời mẹ kể lại, lúc đó mình có chút xíu, đứng dựa lưng vào sân khấu (trời, mình làm biếng từ nhỏ lận á), cầm micro hát bài “Em là mầm non của Đảng” mới ghê chứ. Hồi đó mình nhỏ mà chảnh lắm, mấy bài con chim con ếch không chịu hát đâu, chê “con nít”, mình thích hát mấy bài khó khó dài dài như cái bài “Em là búp măng non em lớn lên trong mùa cách mạng, sướng vui có Đảng tiền phong, có Đảng như ánh thái dương sống yên vui trong tình yêu thương, cuộc đời ngàn năm bừng sáng…” ấy thôi. Hát xong thấy mọi người vỗ tay quá chừng, mấy cô chú ưu ái tặng cho nguyên cái bong bóng lớn to đùng màu đỏ (loại bong bóng đại á, ôm nguyên vòng tay cũng không hết đâu nhé!).

Thế là mình khoái chí tử, đòi bố mẹ chở về khoe ông bà nội và ông bà ngoại. Hình như là trời nắng quá hay sao đó, mà trên đường từ nhà nội về nhà ngoại (hồi đó mình ở với ông bà ngoại), cái bong bóng to đùng, cái phần thưởng đầu tiên mà mình nhận được bằng chính công sức của mình ấy, bể cái bùm.

Theo lời mẹ thì mình đã khóc quá trời, khóc liên tục 3 – 4 tiếng đồng hồ không nghỉ. Bố nói bố sẽ mua cho 1 cái bong bóng khác, cũng to như thế, nhưng mình không chịu. Mình thích cái bong bóng phần thưởng kia cơ! Lúc đó mình còn nhỏ, chưa hiểu biết gì nhiều, nhưng mình mơ hồ thấy rằng cái bong bóng to đùng màu đỏ ấy, giống như nó tượng trưng cho một cái gì đó, mình không gọi tên được, nhưng mình muốn luôn mang theo bên mình cái bong bóng màu đỏ trên suốt con đường mình đi tới.

Cấp 1, lớp 5, gần đến Đại hội Liên đội, mình khoái chí tử nghe cô Tổng phụ trách bảo là lần này sẽ cho mình làm Liên đội trưởng nhé. Ai dè, gần kề ngày đại hội ấy, mình bị nổi trái rạ, nằm ở nhà cả tuần lễ, lúc đi học lại thì nghe con nhỏ bạn ngồi kế bên kể rằng, nó được đi dự đại hội thế mình, được ăn quá chừng bánh kẹo, vui ơi là vui. Thế là mất toi chức Liên đội trưởng, hôm biểu diễn văn nghệ bài Thành phố 10 mùa hoa, mình phải nhường vị trí nhụy hoa cho bạn đó, chỉ được làm 1 trong 4 cánh hoa trong cùng thôi à.

Cấp 2, mình là ứng cử viên sáng giá thứ hai cho việc đọc bài thơ “Bác ơi” để minh họa cho phút truyền thống mỗi buổi lễ chào cờ ở trường (bạn kia thì giọng bắc và đúng là đọc hay hơn mình thật). Sau đó mình không tham gia đội nòng cốt, đội văn nghệ hay gì gì đó nữa, phần vì bận lo “yêu” (hihi), phần vì ghét mấy em chảnh chảnh trong đó. Cho nên, cuối cùng thành quả lớn nhất hồi cấp 2 của mình là được cầm bảng tên Colette, dẫn đầu đội diễu hành của trường dự hội thi Nghi thức cấp quận, năm đó học lớp 8. Mà cũng đâu có phải do mình tài giỏi gì, chẳng qua là cô Tổng phụ trách thấy mình thắt 2 cái bím tóc “ngây thơ” quá, nên quyết định thế thôi (lại khoái chí tử).

Cấp 3, lại yêu (hehe), với lại lo học thi đại học, nên mình chẳng tham gia hoạt động Đoàn nào ở cấp trường cả.

Đại học là một khoảng thời gian mình trở nên “sẵn sàng sung sức” nhất với các hoạt động dày đặc và một số thành tựu nho nhỏ: chức danh Phó Chủ tịch hội sinh viên trường, giải thưởng Sao tháng giêng của Trung ương hội, một chuyến công tác ra Hà Nội, một bài viết gương điển hình trên báo Phụ nữ… Thế nhưng lần đầu tiên chọn danh sách Đoàn viên ưu tú đi học lớp cảm tình Đảng, kết quả bị hủy vì có thư nặc danh tố cáo việc bầu chọn không đúng quy trình. Lần thứ 2 thì bạn Bí thư nộp danh sách trễ. Lần thứ 3 mới đến học được với các lớp đàn em. Rồi làm lý lịch. Cùng đợt với mình, có bạn ở xa tít tận Quảng Ngãi đã xác minh xong từ lâu, mình từ nhỏ tới lớn chỉ ở rịt 1 nơi trong thành phố thôi, gia đình cũng bình thường không có gì đặc biệt, chờ mãi chờ mãi còn chưa xác minh xong. Kết quả, tháng 4/2005 mình ra trường thì đến tháng 12/2005 mới có quyết định. Mà lúc đó thì đã ra khỏi trường đại học rồi, thế là chuyển về sinh hoạt với các chú các bác tại địa phương.

Hai mươi lăm tuổi, nhìn lại, thấy cái bong bóng màu đỏ không còn như xưa nữa. Hình như bây giờ lớn rồi, nặng năm mươi hai ký rưỡi cao một mét sáu mươi phẩy năm, nên thấy cái bong bóng màu đỏ không còn quá to, quá vĩ đại với mình như trước nữa.

Hai mươi lăm tuổi, đang bước đi trên con đường cao tốc mà ở đó tất cả mọi người hối hả lao đi và vượt lên phía trước. Thật ra mình cũng đi không đến nỗi chậm, nhưng cứ thấy vướng víu sao đó, cái bong bóng màu đỏ hình như đang cản gió…

Hai mươi lăm tuổi, tức là trải qua hơn hai mươi năm, cái bong bóng màu đỏ không bao giờ bị bể nữa, nhưng hình như, không bị bể không phải do nó cứng cáp hơn, mà là do nó đã hết căng. Bởi vì hết căng, nên nó không bao giờ bị bể nữa. Nhưng cũng bởi vì hết căng, nên nó không còn lồng lộng phơi phới như ngày xưa nữa…

Hai mươi lăm tuổi. Xòe tay. Bong bóng lên trời…

6 tháng 4, 2007

Cổ tích về tình yêu




Chuyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, mỗi con người có hai đầu, hai mình, bốn tay và bốn chân. Loài người sống rất hạnh phúc, hạnh phúc đến nỗi Thượng đế phải ghen tị, và trong một trận cuồng phong nọ, Thượng đế nổi giận xé toạc mỗi con người ra làm hai mảnh, mỗi mảnh có một đầu, một mình, hai tay và hai chân. Sau đó, còn chưa hả giận, ngài để chung tất cả các mảnh lại với nhau, xáo tung lên như mụ dì ghẻ trộn gạo với thóc, rồi quăng tất cả xuống dòng sông định mệnh. Từ đó, trên cái gọi là dòng sông định mệnh ấy, con người với một đầu, một mình, hai tay và hai chân cứ bơi qua bơi lại, bơi tới bơi lui, bơi ngược bơi xuôi để tìm một nửa đã mất đi của mình. Trong quá trình đó, có những người tìm được người cứ tưởng là một nửa của mình, nhưng thật ra lại không phải; cũng có những người khác, đã gặp được một nửa của mình rồi, mà lại không nhận ra; đặc biệt nhất là có những kẻ, gặp ai cũng lần lượt cho rằng đó là một nửa của mình… Cứ thế, con người trên dòng sông định mệnh cứ hối hả bơi qua bơi lại bơi tới bơi lui bơi ngược bơi xuôi để tìm cho được cái gọi là hạnh phúc…

Mình đã nghe câu chuyện này ở đâu đó, nhưng nói chung mình không thích câu chuyện này, vì các lý do sau:

- Thứ nhất, nếu gặp người không phải một nửa ngày xưa của mình mà không biết, vẫn bơi bên nhau vui vẻ hạnh phúc; thậm chí khi gặp người là một nửa ngày xưa của mình cũng không biết luôn, vẫn “vô tình đi lướt qua nhau”; thì việc tìm ra cái một nửa ngày xưa ấy liệu còn có ý nghĩa gì không trong cuộc sống của mỗi con người?

- Thứ hai, tại sao mỗi con người cứ phải bơi bơi để đi tìm hạnh phúc, mà không hiểu rằng hạnh phúc chỉ ở quanh đây, trong từng khoảnh khắc, trên mỗi khúc sông, ở mỗi con người mà mình đã gặp, đã cùng bơi với nhau suốt một quãng đường dài, à quên, một quãng sông dài. Tại sao cứ phải tìm được một nửa ngày xưa thì mới là hạnh phúc, biết đâu được, mấy nghìn năm đã trôi qua, có cái gì là không thay đổi?

- Cuối cùng, mình không tin vào cổ tích. Mình luôn tự hỏi, nếu cổ tích là có thật, thì tại sao cùng trong cổ tích, cùng trong một đêm mùa đông, cùng vào lúc 12 giờ, cô bé bán diêm lại không gặp được ông già Noel, không nhận được những túi quà hạnh phúc, mà phải đốt từng que từng que diêm để sưởi ấm, rồi lịm dần lịm dần đi trong đêm đông lạnh giá… Cổ tích để làm gì khi mà ngay cả trong mơ ước con người cũng không thể đem hạnh phúc đến được cho nhau?

Mình không tin vào cổ tích. Nhưng nếu bạn tin, hoặc bạn muốn nghe một câu chuyện cổ tích có ý nghĩa hơn về tình yêu, mình xin kể tiếp câu chuyện này:

Ngày xửa ngày xưa, trên một hòn đảo nọ, có nhiều người cùng chung sống với nhau, mỗi người đại diện cho một giá trị mà con người luôn hướng đến trong cuộc sống: Tình Yêu, Hạnh Phúc, Giàu Sang, Sắc Đẹp, Thông Thái… Trong đó, Tình Yêu là một cô gái bé bỏng, xinh tươi, trong trắng và luôn được mọi người yêu mến. Suốt ngày Tình Yêu chỉ ca hát, vui chơi, chăm sóc những luống hoa, rồi gội đầu chải tóc… Một hôm, không hiểu vì lý do gì (chắc lại là do Thượng đế nổi giận), trời nổi trận cuồng phong khiến hòn đảo trở nên ngập lụt rồi dần dần chìm trong biển nước. Bằng những cách khác nhau, những người khác trên đảo đều đã chuẩn bị được thuyền bè để rời khỏi đảo an toàn. Duy chỉ có Tình Yêu là không chuẩn bị trước, nên cô phải hối hả chạy qua chạy lại, chạy tới chạy lui, chạy xuôi chạy ngược để xin được giúp đỡ:

- Sắc Đẹp ơi, bạn cho mình đi cùng bạn với được không?
- Ồ không được đâu Tình Yêu ơi, bạn sẽ làm vấy bẩn chiếc áo mới của mình mất.

- Giàu Sang ơi, bạn cho mình đi cùng với được không, thuyền của bạn to thế kia mà?
- Ồ không được đâu Tình Yêu ơi, thuyền của mình chở đầy vàng bạc châu báu rồi, không có chỗ cho bạn đâu.

- Hạnh Phúc ơi, bạn cho mình đi cùng với được không? Hạnh Phúc ơi, Hạnh Phúc ơi!
- La la la (chắc bạn Hạnh Phúc mãi lo ca hát nên không nghe thấy tiếng gọi của Tình Yêu).

Trong lúc Tình Yêu đang vô cùng tuyệt vọng thì có một ông lão lẳng lặng chèo thuyền đến, lẳng lặng chở Tình Yêu sang bờ bên kia, rồi lẳng lặng ra đi, không kịp cho Tình Yêu nói một lời cám ơn hay thăm hỏi nào. Vô cùng thắc mắc, Tình Yêu bèn đi hỏi Thông Thái. Anh chàng Thông Thái sau một hồi nghiên nghiên cứu cứu, suy suy ngẫm ngẫm liền nói:

- Tình Yêu ơi, mình nghĩ ra rồi, chắc chắn bác ấy là bác Thời Gian.

- Bác Thời Gian ư? Thế lý do tại sao bác ấy lại cứu mình vậy hả Thông Thái?

- Vì một lẽ rất đơn giản thôi Tình Yêu ạ. Thời Gian đã cứu bạn bởi vì hơn ai hết, chỉ có Thời Gian mới hiểu rõ được Tình Yêu quý giá đến mức nào.

4 tháng 4, 2007

Dải ruy băng trên cây sồi già




Nước Mỹ. Năm 1971. Tại một tỉnh vùng núi xa xôi, trong một thị trấn nhỏ vô danh có một chàng trai bị kết án tù. Cảnh sát đã chứng minh được rằng anh ta phạm tội và ba năm là khoảng thời gian vừa đủ để sửa chữa lỗi lầm. Nhưng Mary, người vợ chưa cưới của chàng trai lại không tin điều đó. Ngày mở phiên toà, mặc cho chàng trai không ngừng quay lại phía sau tìm kiếm thì cô vẫn vắng mặt.

Trước khi lên chiếc xe dành cho tù nhân, chàng trai nhờ chuyển cho Mary một lá thư rồi đi ngay. Anh không kịp nhìn thấy cô đang đứng khuất sau, vừa khóc vừa nắm chặt tờ giấy với những dòng ngắn ngủi:

"Anh biết anh không xứng đáng với tình yêu của em. Anh cũng không còn hi vọng em còn yêu anh sau những chuyện này. Nhưng nếu em tha thứ cho anh, hãy buộc một dải ruy băng màu vàng lên cây sồi già duy nhất ở quảng trường thị trấn vào ngày anh trở về. Và nếu không nhìn thấy dải ruy băng, anh sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quấy rầy em nữa".

Trong suốt ba năm ngồi tù, dù cho chàng trai mong mỏi Mary đến đâu thì cô vẫn bặt tin. Năm đầu tiên, anh tự nhủ có lẽ cô chưa quen được với ý nghĩ chồng sắp cưới của mình là một kẻ phạm tội. Năm thứ hai, chàng trai nhờ người hỏi han tin tức và chỉ nghe phong phanh là cô đã đi xa, xa lắm và chẳng biết bao giờ mới quay trở lại. Đến những ngày tháng cuối cùng trong tù, anh đã không còn nghĩ đến dải ruy băng màu vàng nữa, nhớ về người con gái anh yêu lại càng không. Đến ngày ra tù, anh quyết định sẽ lên xe bus đi thẳng ra thành phố chứ không qua quảng trường thị trấn như đã hẹn.

Một chuyến... hai chuyến... ba chuyến xe đã dừng lại rồi chạy tiếp mà chàng trai vẫn không bước lên. Mãi tới khi chuyến cuối cùng chạy qua, anh mới lầm lủi đi bộ tới quảng trường. Lý trí bảo anh đi theo hướng ngược lại nhưng tình yêu vẫn bắt anh bước về phía trước.

Và, chiều hôm đó, hàng trăm người dân có mặt tại quảng trường đã ngạc nhiên khi thấy một chàng trai bật khóc nức nở dưới tán sồi vàng rực bởi hàng trăm dải ruy băng...


Lại một câu chuyện đã cũ nữa, nhưng thông điệp của nó lại là một bài học mới toanh (ít nhất là đối với bản thân mình) về tình yêu và sự tha thứ. Yêu một người không chỉ là ngưỡng mộ những cái hay cái đẹp, mà còn phải biết chấp nhận, cảm thông và tha thứ cho những lầm lạc nếu có của người đó. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải tha thứ ngay cả khi chưa thật sự sẵn sàng và cố gắng ngay cả khi đã kiệt sức. Tha thứ không chỉ là cho người khác, mà còn là cho chính mình một cơ hội…